Sống Thanh Khiết

trước Những Thứ Hấp Lực Đồng Phái Tính

 

Khi cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo vừa xuất bản bằng Anh ngữ vào giữa năm 1994, chậm mất 1 năm rưỡi, (v́ cần phải dịch lại theo đúng ư Giáo Hội chứ không được dịch theo kiểu ngôn ngữ bao gồm - inclusive language), tôi đă mua đọc ngay và c̣n giới thiệu với một người bạn cũng rất yêu thích giáo lư. Không ngờ, có một lần, tôi đă nhận được cú điện thoại của người bạn này phê b́nh nặng lời về cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo này. Bởi v́, người bạn này cho rằng cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo mới này sai lầm ở chỗ bệnh vực thành phần đồng tính luyến ái. Anh đă trích lại nguyên văn lời trong Sách Giáo Lư mà anh cho rằng tỏ ra bênh vực thành phần đồng phái tính đó là câu: “họ không muốn t́nh trạng đồng phái tính của ḿnh” (khoản 2358).

Tôi đă cố gắng phân tích cho anh nghe theo như tôi hiểu những chữ Giáo Lư này. Tôi nói với anh ấy rằng cần phải phân biệt “t́nh trạng” (condition) và “tác hành” (behavior) đồng phái tính. Về “t́nh trạng” đồng phái tính là những ǵ thuộc về tự nhiên, như những tính mê nết xấu trong con người bị nhiễm lây nguyên tội, Giáo Lư chỉ công nhận sự kiện bẩm sinh không thể chối căi này nơi một số người thôi, thành phần mà chính họ dù không muốn cũng vẫn có những khuynh hướng bất thường này. Tuy nhiên, cho dù có những khuynh hướng bẩm sinh đồng tính này, con người vẫn không được v́ thế mà sống theo hay có những tác hành theo khuynh hướng vô luân ấy. Đó là lư do, về “t́nh trạng” đồng phái tính, cũng trong cùng một khoản Giáo Lư này, Giáo Hội khuyên phải tôn trọng thành phần đồng phái tính. Tuy nhiên, về tác hành đồng tính, ở khoản trước đó, 2357, Giáo Lư đă liệt kê nó vào những “tác hành tự bản chất lăng loàn” và sau đó, 2359, Giáo Lư đă kêu gọi thành phần đồng phái tính “sống thanh tịnh”. Tuy nhiên, người bạn này, ngay bấy giờ vẫn không chịu lập luận của tôi, cho tới khi anh nghe thấy một vị linh mục người Mỹ giải thích giống như tôi.

Hôm Thứ Bảy 10/1/2004, trong một cuộc gặp gỡ các em Thiếu Nhi Fatima ngành Nghĩa (từ 14-18) ở Cộng Đoàn Thánh Phêrô Torrance thuộc TGP/LA, có một em gái cho tôi biết rằng, em có một người bạn (trai hay gái tôi không hỏi kỹ) sống đồng tính luyến ái, nhưng rất hối hận, thậm chí cảm thấy tội lỗi của ḿnh quá nặng nề, đến nỗi Chúa không thể nào tha thứ cho được. Người bạn của em ấy đă thất vọng và có ư muốn tự tử.

Tôi đă cho tất cả nhóm giới trẻ bấy giờ trên 40 em biết bốn điều sau đây. Thứ nhất, về ư thức tội lỗi, người bạn được nhắc đến ấy đă công nhận tác hành (behavior) đồng tính là tội lỗi. Thứ hai, về tác hành tội lỗi, người bạn đồng tính ấy cảm thấy tác hành đồng tính của ḿnh quá tội lỗi đi, v́ có thể làv́ em ấy có những hành động tính dục đồng tính và sau đó cảm thấy hành động đó thật là ghê tởm, hoàn toàn phản tự nhiên. Thứ ba, về ḷng tin tưởng nơi Thiên Chúa, ở chỗ, tội lỗi của chúng ta, dù có tầy trời đến đâu chăng nữa, cũng không thể bao la vô cùng như t́nh thương vô biên của Thiên Chúa; nếu chúng ta không tin vào t́nh yêu nhân hậu của Chúa là chúng ta phạm đến Ngài nhất, phạm đến Ngài c̣n hơn tất cả mọi thứ tội lỗi khủng khiếp khác của chúng ta nữa. Và thứ bốn, về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi một người chúng ta chứ không phải chỉ yêu chung nhân loại và chẳng biết từng người chúng ta là ai; đó là lư do Phúc Âm Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa đă đi t́m con chiên thứ 100 duy nhất, và Phúc Âm Thánh Gioan cũng đă cho chúng ta biết Chúa đă cố ư ngồi chờ người phụ nữ Samaritanô tội lỗi bên bờ giếng Giacóp vào giờ chị có thói quen ra kín nước vắng người để làm cho chị tin vào Người mà bỏ đường tội lỗi.

Nguyên việc người bạn đồng tính của em Thiếu Nhi Fatima hỏi tôi nhận thức được cái trầm trọng hết sức nơi tác hành vô luân của ḿnh cũng là một tác động thần linh để em ấy trở về với Chúa chứ không phải để em ấy sợ Ngài và mất Ngài đời đời. Bởi v́, chỉ khi nào con người nhận ḿnh có lỗi họ mới có thể cải thiện được mà thôi, như trường hợp điển h́nh dưới đây, một con người đă trải qua kinh nghiệm đầy ḿnh và đă có những lời khuyên rất chí t́nh gửi đến thành phần đồng phái tính.

Kư giả David Morrison, ở Arlington Virginia, đă từng sống đời đồng tính nhưng đă trở về sống thanh tịnh như một người trở lại Công Giáo, và là tác giả cuốn “Beyond Gay” (Bên Trên Cuộc Đồng Tính Nam Nhân) do Tuần San Our Sunday Visitor xuất bản, hiện là sáng lập viên và điều hành viên Mạng Điện Toán Can Trường. Anh đă chia sẻ cảm nghiệm của ḿnh với màn điện toán Zenit về cách thức sống thanh tịnh đă giúp giảm bớt mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính sau đây.

Vấn     Anh nghĩ anh điều ǵ đă góp phần vào những thứ hấp lực đồng phái tính của anh?

Đáp     Cho dù những thứ hấp lực đồng phái tính gây ra do di truyền hay yếu tố gi truyền, hoặc phát xuất từ những trục trặc về liên hệ trong cuộc sống thiếu thời cũng đều gây ra một trong những tranh luận càng gay go về khoa học hiện nay. Tiếc thay, vấn đề bàn căi này lại có khuynh hướng đi trệch khỏi những ǵ thuần khoa học và đánh thẳng vào chủ đề mà là đi vào một lănh vực văn hóa bao rộng, theo tôi nghĩ, là lănh vực vấn đề này khó ḷng có thể tránh nổi.

Riêng trường hợp của ḿnh, tôi tin rằng những trục trặc về mối liên hệ quan trọng với cả hai bố mẹ của tôi, cũng như với các thứ bạn bè của tôi, đă góp phần vào việc phát triển những thứ hấp lực đồng phái tính nơi đời sống của tôi cũng như nơi nhân cách của tôi. Tôi không trách cứ cha mẹ tôi tí nào cả; các vị trở thành con người các vị là theo như những ǵ các vị được dưỡng dục cũng như theo những ǵ các vị đă cố gắng hết sức để nuôi dưỡng tôi. Thế nhưng, về vấn đề t́nh cảm th́ bố tôi rất xa cách trong suốt thời thơ ấu của tôi, trong khi mẹ tôi dường như lại quá dễ cảm xúc. Ngoài ra, cuộc hôn nhân của bố mẹ tôi có rất nhiều căng thẳng, không thể nào không ảnh hưởng tới đứa con.

Nếu nói mạnh th́ tôi có thể nói rằng có thể là tôi đă có một loại nhân cách dễ đưa đến những thứ hấp lực đồng phái tính. Thế nhưng, nói cho cùng, tôi nghĩ là có một số liên hệ cùng với những yếu tố về môi trường cũng đă thực sự góp phần vào việc phát triển những thứ hấp lực đồng phái tính này.

Vấn     Những nguồn ở bên ngoài, chẳng hạn như văn hóa truyền thông, có ảnh hưởng tới những ư nghĩ của anh về những thứ hấp lực đồng phái tính hay chăng? Nếu có th́ xẩy ra như thế nào?

Đáp     Tôi được sinh vào đời năm 1963 và có lẽ thời điểm chính đối với một thứ văn hóa có tác dụng lớn trên tôi là vào giai đoạn từ năm 1976 đến 1986. Vào khoảng năm 1976 tôi mới có nhận thức về t́nh dục, ở chỗ tôi bắt đầu có ước muốn về t́nh dục và bắt đầu thèm muốn về t́nh dục, mới đầu với chính ḿnh bằng việc thủ dâm, song cũng với cả những người khác nữa, lớn tuổi hơn, những đứa con trai có thân thể, kinh nghiệm và hấp lực như thần tượng đối với tôi. Nh́n lại, tôi có thể nói là, ở một mức độ nào đó, chúng đă lợi dụng một thằng con trai trẻ hơn theo đuổi chúng để chúng có thể thỏa măn những thứ nhục dục căn bản.

Tôi không nhớ nhiều lắm những điều diễu cợt thật là “nặng nề”. Khi mà vấn đề giải phóng đồng tính luyến ái hay phong trào đồng tính nam nhân càng kéo được chú ư của toàn quốc th́ tôi nhớ rằng bấy giờ đang có những thứ diễu cợt về vấn đề này cũng như về hội chứng liệt kháng AIDS. Thế nhưng, tôi bao giờ cũng có thể che giấu được những thứ hấp lực đồng phái tính của ḿnh, và những thằng con trai lớn tuổi hơn tôi mà tôi đôi khi làm t́nh với chúng h́nh như đă không cho việc tôi tự nguyện làm t́nh với chúng là những ǵ hoàn toàn có tính cách đồng phái tính nơi tôi.

lẽ ảnh hưởng về văn hóa mạnh nhất đối với những thứ hấp lực đồng phái tính nơi tôi đă xẩy ra khi tôi ở vào khoảng 19 tuổi hay đâu đó, và khó ḷng mà tránh được là nếu quí vị sống với những thứ hấp lực đồng phái tính ấy, quí vị chắc chắn sẽ đi đến chỗ làm t́nh và tự cho ḿnh là thành phần đồng nam tính. Chỉ có một điều chọn lựa duy nhất theo văn hóa, ở chỗ không nói với ai rằng quí vị đang sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính, đó là điều không thể chấp nhận được v́ nó là một cái vé vào sống một cuộc đời thật khốn khổ và sợ hăi.

Nghĩ kỹ, tôi đă thấy được một thứ chọn lựa về văn hóa tiến đến hai thái cực này, một là phải lén lút v́ sợ rằng người ta biết được tôi đă sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính, hoặc tự nhận ḿnh là thành phần đồng nam tính và hiên ngang sống với khuynh hướng này.

Vấn     Vào lúc nào anh đă khám phá ra con đường sống ngược lại với những thứ hấp lực đồng phái tính của ḿnh?

Đáp     Tôi không tin rằng tôi đă khám phá ra một đường lối sống “ngược lại” với những thứ hấp lực đồng phái tính. Trái lại tôi nghĩ rằng tôi đă khám phá ra một cái ǵ đó giống như những ǵ bất cứ một ai muốn tiến từ một đời sống chạy theo ham muốn tạm bợ tự nhiên đến một đời sống dứt khoát t́m kiếm Chúa Kitô vậy.

Những mức độ của các chước cám dỗ chúng ta phải đương đầu thường giảm xuống khi chúng ta thôi ham hố chúng; việc t́m cách sống thanh tịnh cũng như việc làm chủ những đam mê của ḿnh làm cho chúng suy yếu đi, và trong trường hợp của những thứ hấp lực đồng phái tính cũng thế, tôi tin rằng việc sống thanh tịnh giúp làm giảm bớt mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính tôi đă trải qua.

Theo nhận định này, tôi tin rằng con người nam nữ có thể làm suy yếu những thứ hấp lực đồng phái tính theo gịng thời gian và ở những mức độ khác nhau. Đó là những ǵ tôi đă cảm nghiệm nơi cuộc sống của ḿnh, mặc dù tôi chưa bao giờ t́m kiếm những thứ trị liệu để làm giảm bớt những thứ hấp lực đồng phái tính này. Cho dù tôi vẫn c̣n đang sống ở một mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính, giờ đây mức độ đó đă ít hơn trước đây 3 năm, và tôi nghĩ rằng tôi sẽ thấy nó càng ít đi hơn nữa trong ba năm tới đây.

Tôi chưa hề t́m kiếm phương pháp trị liệu để làm giảm bớt những thứ hấp lực đồng phái tính tôi trải qua, v́ phương pháp trị liệu như vậy đắt đỏ về tiền bạc, thời gian và cảm lực, và theo kinh nghiệm của ḿnh, tôi đă từng gặp nhiều trở ngại hơn trong việc trị liệu những thứ hấp lực đồng phái tính.

Vấn     Anh đă quyết định thay đổi như thế nào? Phải chăng đă xẩy ra một giây phút hối cải trong cuộc đời của anh?

Đáp     Tôi chưa bao giờ thật sự quyết định cố gắng để đổi thay những thứ ham muốn tính dục của ḿnh. Tôi thật sự đă trở về với niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và t́m kiếm Người, đầu tiên nơi Anh Giáo, rồi tới Giáo Hội Công Giáo Rôma.

Tôi đến với Chúa Kitô bởi v́, như người mù bên vệ đường, tôi đă sống trong thất vọng và không c̣n ǵ để mất nữa. Không ai truyền bá phúc âm hóa cho tôi hay giúp tôi đến với Giáo Hội cả.

Vào khoảng 30 tuổi, tôi đă có được nhiều điều mà văn hóa đồng nam tính đương thời cho rằng một nam nhân có được. Tôi đă có một người t́nh đồng phái tính 7 năm. Tôi có việc làm ngon lành và các bạn bè đồng nghiệp coi trọng tôi. Người bạn t́nh của tôi và tôi đă mua chung một căn nhà và tích cực hoan hưởng một cuộc đời t́nh dục. Tôi là một nam nhân đồng tính công khai trong suốt cuộc đời của ḿnh.

Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy không có hạnh phúc. Với tất cả những ǵ ḿnh có mà cuộc sống của tôi dường như cảm thấy trống rỗng. Qua một thời gian dài tôi tưởng vấn đề nằm ở một cái ǵ về cuộc sống của tôi, nên tôi đă cố gắng thay đổi nhiều điều khác nhau để xem kết quả ra sao.

Một ngày kia, một ḿnh ở nhà, tự nhiên tôi nẩy lên ư tưởng cầu nguyện, và tôi đă nguyện cầu bằng Lời Kinh của Vấn Nhân cổ thời như sau: “Lạy Chúa, tôi chẳng biết Ngài có hiện hữu hay chăng, thế nhưng, nếu Ngài hiện hữu th́ tôi quả thực là cần đến Ngài trong cuộc đời của tôi”. Quả thực Ngài đă đi vào cuộc đời của tôi và từ đó vấn đề không c̣n giống như trước nữa.

Vấn     Đức tin của anh đă đóng vai tṛ như thế nào trong cuộc chiến đấu để thay đổi tác hành đồng phái tính của anh?

Đáp     Tôi vẫn không chiều theo việc sống thanh tịnh ngay lập tức. Tôi đă phải trải qua một số năm cố gắng đứng trước ngă ba đường, giữa việc sống thanh tịnh và sinh hoạt tính dục bằng việc gọi ḿnh là một “Kitô hữu đồng tính”, tức là một kẻ vừa tin vào Chúa Kitô mà lại vẫn c̣n sống t́nh dục đồng tính.

Thế nhưng, một khi tôi càng cầu nguyện và càng hiểu hơn về Chúa Giêsu Kitô, về Kitô giáo theo gịng lịch sử và về các thánh nhân, cũng như khi tôi thấy được các chứng từ phát xuất từ những người Kitô hữu trung thành khác thể hiện vai tṛ của Chúa Kitô trong đời sống của họ, tôi tiến đến chỗ dứt khoát là tôi không muốn là một “Kitô hữu đồng tính nam nhân” nữa.

Tôi muốn thuộc về Chúa Kitô, và nếu yêu mến Người có nghĩa là sống thanh tịnh, cũng như nếu Người muốn giúp tôi làm điều này th́ đó là những ǵ tôi đă mong muốn và là những ǵ tôi đang mong muốn hôm nay đây.

Vấn     Các thứ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có giúp được ǵ anh không? Tại sao?

Đáp     Tôi nghĩ Đức Gioan Phaolô đă phục vụ Kitô hữu, thậm chí cả những người không phải là Kitô hữu nữa, bằng việc Ngài đă cẩn thận giải thích và loan truyền một thứ thần học về thân thể.

Tôi nghĩ rằng ngày nay đang xẩy ra một thứ lầm lẫn về vai tṛ thân thể chúng ta đóng trong đời sống tâm linh của chúng ta cũng như về tầm quan trọng của thân thể của chúng ta như là những ǵ chúng ta được tạo dựng nên. Đức Gioan Phaolô II đă đặt một nền móng cho một phần rất quan trọng nơi sứ điệp của Giáo Hội thuộc những ngàn năm tới đây.

Vấn     Giáo Hội cần phải khuyến khích thành phần sống cuộc đời đồng phái tính trở thành độc thân và giữ đức thanh tịnh như thế nào?

Đáp     Giáo Hội có thể làm cho tất cả mọi người một ân huệ bằng việc khuyến khích họ, cho dù họ có đang sống theo những thứ hấp lực của đồng phái tính hay chăng, hăy đi sâu vào những mối liên hệ và t́nh thân hữu sâu xa hơn và mạnh mẽ hơn không dính dáng ǵ đến vấn đề t́nh dục.

Rất nhiều người ngày nay, không phải chỉ có những con người trẻ trung, bị lầm lẫn về bản chất của t́nh thân hữu chân thực cũng như về vấn đề cần phải có mối thân t́nh cảm mến trong đời sống của chúng ta.

Giáo Hội quả thực khuyên những con người nam nữ độc thân hăy sống thanh tịnh, nhưng Giáo Hội không khuyên chúng ta sống lẻ loi cô độc. Giáo Hội cần giúp cho con người hiểu rằng họ có thể sống một cuộc sống vui vẻ về cảm t́nh và thân t́nh mà không cần đến sinh hoạt tính dục.

Vấn Anh có điều ǵ khuyến dụ muốn gửi đến những người sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính hay chăng?

Đáp Đừng nghĩ rằng những thứ hấp lực đồng phái tính của ḿnh tự nó là những ǵ làm nên đời sống của ḿnh. Con người là một thực thể phức hợp hết sức trọng đại để có thể bị phá sản với nhăn hiệu “tôi là một nam nhân đồng tính” hay “tôi là một nữ nhân đồng tính”.

Đặc biệt là nếu quí bạn c̣n trẻ và chưa nhào đầu vào sinh hoạt t́nh dục, th́ đừng tin rằng quí bạn cần phải cảm nghiệm ở cùng một mức độ theo những thứ hấp lực đồng phái tính quí bạn đang thấy ngày nay.

Đừng nghĩ rằng hễ quí bạn sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính th́ Thiên Chúa sẽ không yêu thương quí bạn nữa, hay quí bạn sẽ không thể t́m kiếm Người, hoặc quí bạn sẽ không thể t́m cách trở nên một thánh nhân được.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 9/1/2004.